Ninh Thuận lại mang nhiều nét văn hoá truyền thống hơn là văn hoá tôn giáo.
Tuy chịu ảnh hưởng của tôn giáo Bàlamôn, nhưng nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận lại mang nhiều nét văn hoá truyền thống hơn là văn hoá tôn giáo.
Bởi trước khi tiếp nhận ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ, người Chăm cũng như các cư dân Đông Nam Á đã mang trong mình nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về nghi lễ cưới xin người Chăm Bàlamôn, nhưng chưa có công trình nào bóc tách các lớp văn hoá và đi tìm những phong tục tập quán tốt đẹp trong của người Chăm trong đám cưới truyền thống ấy. Qua một công trình khoa học gần đây nghiên cứu về nghi lễ cưới xin của người Chăm Bàlamôn, chúng tôi xin ghi lại những phong tục lạ và đẹp của một đám cưới truyền thống người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận.
Cũng như các dân tộc khác ở Việt Nam và ở Đông Nam Á, cưới xin là một trong những nghi lễ quan trọng trong các nghi lễ đời người, đánh dấu mốc kỷ niệm và bước ngoặt, nhiều khi còn là số phận của cuộc đời mỗi con người. Vì vậy, các bước của nghi lễ cưới xin phải qua đầy đủ trình tự thủ tục chặt chẽ, khá tương đồng giữa các dân tộc từ nghi thức mai mối, lễ hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt v.v... Tuy nhiên, do sự chồng xếp nhiều lớp văn hoá, lễ cưới người Chăm Bàlamôn mang nhiều nét đặc thù mà ít có ở các dân tộc khác ở Việt Nam.
Người Chăm vẫn duy trì chế độ mẫu hệ nên quyền chủ động trong hôn nhân thuộc về nhà gái. Khi con gái đến tuổi lấy chồng, cha mẹ đã phải lo nhắm trước những chàng trai trong vùng để "lựa rể" cho con mình, và vì là nhà gái, nên cha mẹ bao giờ cũng phải giữ "tiếng" cho con gái mình, mọi nghi thức mai mối dạm hỏi thường được diễn ra "bí mật" tuyệt đối, vì lỡ sự dạm hỏi không thành, ảnh hưởng tới "tiếng" của cô gái và vì vậy lần dạm hỏi sau sẽ khó hơn. Cũng vì lý do này mà nhà gái phải mời ông mai bà mối là những người khéo ăn nói, khi đi dạm hỏi phải biết nói xa gần, bóng gió, ví von bằng hình ảnh đon sơ mộc mạc như con trâu, cái cày, chiếc xe trâu, ví dụ như những câu: "Ruộng nhà tôi đang vào mùa vụ, nhà tôi muốn tậu con trâu nhà chị về nuôi...". Đồng thời thăm dò bằng được ý tứ của đằng nhà trai.
Ngoài ra, ông mai bà mối phải là người đàng hoàng, "một kèo một cột" (một vợ một chồng) gia đình hoà thuận, con cái đông đúc, có uy tín trong làng và đã nhiều lần mai mối thành công. Nếu nhà trai đồng ý, ông mai bà mối đi lại bàn bạc với nhà trai nhiều lần để bàn những bước tiếp theo.
Lễ vật trong lễ hỏi của người Chăm thường rất đơn giản, chỉ có trầu cau, rượu, bánh pay nung (một loại bánh dân tộc giống như bánh tét), một vài loại trái cây. Đồ ăn thức uống trong đám cưới là những món ăn cổ truyền Chăm làm từ các loại nông sản và vật nuôi như thịt gà, thịt vịt, cá, bún, súp, các loại canh rau, đặc biệt là phải có cá đuối vì người Chăm quan niệm cá đuối là loại cá đẻ ra con, với ý niệm là đôi vợ chồng trẻ sẽ mau mắn có con, ngoài ra, cá đuối còn tượng trưng cho ánh sáng. Phong tục xưa quy định, trong lễ cưới, ngày đầu tiên chỉ ăn toàn cá đuối.
Lễ hỏi diễn ra đơn giản trên những chiếc chiếu trải trên sân nhà. Bà bóng dòng tộc sẽ làm một lễ cúng ông bà tổ tiên rồi mọi người trò chuyện vui vẻ. Trước khi ra về, đại diện nhà gái mời đại diện nhà trai đến "làm khách" nhà gái. Nhà gái sẽ tổ chức một bữa tiệc mặn đón nhà trai. Buổi tiệc này, hai họ sẽ làm lễ "dứt lời" (quyết định đám cưới). Nhìn chung, nghi thức dạm hỏi cũng như lễ hỏi cũng giống như các dân tộc khác, chỉ khác là nhà gái đi hỏi chồng bên nhà trai và không có chuyện thách cưới, ngoài ra có thêm lễ "dứt lời" để đi đến quyết định tổ chức đám cưới.
Cũng như các dân tộc khác, người Chăm cũng quan niệm ngày lành tháng tốt trong một năm. Nhưng đối với người Chăm, một dân tộc có quan niệm âm dương lưỡng hợp rất rõ nét nên mọi quy định đểu phải phù hợp với quy luật này. Đám cưói của người Chăm, do là chế độ mẫu hệ nên lễ cưới thuộc âm. Vì vậy, lễ cưới của người Chăm phải chọn vào đúng các tháng 3,6,10,11 lịch Chăm và phải nhằm vào những ngày hạ tuần trăng (thuộc âm - từ đêm trăng tròn đến khi hết trăng). Ngày cưới phải thuộc vào ngày chẵn (các số thuộc âm) :2,4,6,8,10,12,14 Chăm lịch và phải vào ba ngày (thứ ba, thứ tư, thứ năm) trong tuần. Trong ba ngày ấy, lễ chính thức thuộc vào thứ tư. Giờ bắt đầu lễ cưới phải bắt đầu buổi chiều (buổi chiều thuộc âm). Cách tính ngày giờ tốt xấu của người Chăm khá phức tạp nhưng chặt chẽ, tuân thủ theo những quy luật nhất định và phải quán xuyến thống nhất từ đầu đến cuối, lễ cưới thuộc âm và mang tính "mẹ" rất rõ ràng. Đây là một phong tục thể hiện chế độ mẫu hệ bao trùm suốt chiều dài lịch sử văn hoá dân tộc Chăm.
Một nét khá độc đáo trong đám cưới người Chăm Bàlamôn là người chủ lễ. Chủ lễ cưới của người Chăm Bàlamôn được gọi là ông bà Nưmư (cha mẹ đỡ đầu). Ông bà nưmư phải là người có uy tín và am hiểu phong tục tập quán, thuộc các bài khấn vái trong các tiểu lễ. Đặt trường hợp ông bà nư mư không thuộc hoặc chưa quen việc cúng kính, có thể mời một ông thầy khác cúng thay, nhưng chủ lễ