VIỆT NAM HỌC Ở VIỆT NAMTRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN GS.TS Ngu การแปล - VIỆT NAM HỌC Ở VIỆT NAMTRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN GS.TS Ngu อังกฤษ วิธีการพูด

VIỆT NAM HỌC Ở VIỆT NAMTRÊN CON ĐƯỜ

VIỆT NAM HỌC Ở VIỆT NAM
TRÊN CON ĐƯỜNG HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội
1. Việt Nam học theo các chuyên ngành nghiên cứu Việt Nam
VIỆT NAM HỌC (VIETNAMOLOGY) HAY NGHIỜN CỨU VIỆT Nam
(Vietnamese Studies), cũng như Đông phương học (Orientalism) hay Nghiên cứu
phương Đông (Oriental Studies) với tư cách là các ngành khoa học thực sự chỉ được
hình thành trong quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây,
trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phương Tây đang mở rộng bành trướng và chiếm
đoạt các nước phương Đông.
Nền Đông phương học của phương Tây bắt đầu hình thành và phát triển tính
từ các thế kỷ XVI- XVII gắn liền với nhu cầu truyền giáo và đẩy mạnh các hoạt
động thương mại trong thời đại “thương mại Biển Đông”. Việt Nam học ở phương
Tây, vì thế cũng đã manh nha từ thế kỷ XVI và bước sang thế kỷ XVII đã xuất hiện
nhiều tác phẩm của các tác giả như Alexandre de Rhodes, Cristophoro Borri, Jean
Baptiste Tavernier, William Dampier, Samuel Baron... Tuy nhiên phải đến cuối thế
kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình xâm lược và thống trị của Thực dân
Pháp thì Việt Nam học của phương Tây (mà thực chất và chủ yếu là Việt Nam học
của Pháp) mới thực sự trở thành một ngành học với các học giả nổi tiếng như Henry
Maspéro, Léonard Aurousseau, Paul Pelliot, Léopold Cadière, Emile Gaspardonne,
André Geoges Haudricourd, Madelein Colani, Pierre Gourou... Năm 1900, Viện
Viễn Đông Bác cổ Pháp thành lập có trụ sở và thư viện chính đặt tại Hà Nội đã trở
thành trung tâm quan trọng nhất tập hợp các nhà Việt Nam học Pháp và phương
Tây. Điều có thể dễ dàng nhận thấy các tác giả này đều là các chuyên gia nghiên
cứu về Trung Quốc hay Ấn Độ chuyển sang nghiên cứu Việt Nam, nên họ nghiên
cứu Việt Nam trong mối quan hệ đối sánh với Trung Hoa hay Ấn Độ và nhìn chung
là họ chưa thoát ra khỏi quan niệm lấy châu Âu làm trung tâm. Việt Nam học thời
kỳ Pháp thuộc được phát triển trong sự phát triển chung của nền Đông phương học
phương Tây, chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền học thuật lớn là Trung Quốc học
2
và Ấn Độ học, tuy có đóng góp vào việc nâng cao nhận thức về đất nước, con người
Việt Nam, nhưng thực chất nó chính là công cụ của Thực dân Pháp cho việc hoạch
định các chính sách đô hộ và khai thác thuộc địa ở Việt Nam.
Đã từ lâu trong lịch sử Việt Nam từng xuất hiện những nhà bác học lỗi lạc
như Lê Văn Hưu, Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú… với
những tác phẩm bất hủ về đất nước, con người Việt Nam. Hoàn toàn có thể coi
những công trình này là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng của Việt Nam học. Đến
đầu thế kỷ XX, trên cơ sở nền học thuật truyền thống, nhiều trí thức Việt Nam tiếp
thu được tri thức và phương pháp khoa học tiên tiến từ phương Tây đã nâng tầm các
công trình khoa học của mình. Rồi ngay sau đó, hầu hết các nhà trí thức đó bằng
nhiều con đường khác nhau đã đến với con đường cách mạng, đến với chủ nghĩa
Mác Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và trở thành những
chuyên gia đầu ngành của nền khoa học xã hội nhân văn Việt Nam. Họ chính là
những người khai sáng ra nền Việt Nam học Việt Nam hiện đại.
Việt Nam học lúc đầu được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các chuyên
ngành khoa học (chủ yếu là khoa học xã hội và nhân văn) nghiên cứu về đất nước,
con người Việt Nam như Lịch sử Việt Nam, Văn hoá Việt Nam, Văn học Việt Nam,
Nghệ thuật Việt Nam, Ngôn ngữ Việt Nam, Kinh tế Việt Nam, Luật pháp Việt
Nam, Dân tộc Việt Nam, Địa lý Việt Nam, Môi trường Việt Nam... Trên tinh thần
ấy có thể lấy ngày 10 tháng 10 năm 1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
45 thiết lập Ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội làm mốc đánh dấu sự xuất hiện của
Việt Nam học Việt Nam hiện đại. Năm 1953 với sự ra đời Ban Văn Sử Địa và tiếp
đó là sự thành lập các Viện nghiên cứu, các khoa khoa học xã hội thuộc các trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Sư phạm và từ năm 1995 đến nay là các trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, đánh
dấu các bước phát triển mới của Việt Nam học Việt Nam theo hướng chuyên ngành.
Phải khẳng định trong thời kỳ đầu mới xây dựng, Việt Nam học không thể
không dựa vào các chuyên ngành nghiên cứu về Việt Nam có trước làm cơ sở nền
tảng cho quá trình hình thành và phát triển của mình. Sự trưởng thành của mỗi một
ngành học cụ thể nghiên cứu về Việt Nam ở cả trong nước và ngoài nước đều có thể
xem là một cơ hội cho sự phát triển của Việt Nam học. Việt Nam học ở đâu thì cũng
là nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam học Việt Nam
3
hiện đại khác căn bản so với Việt Nam học thời kỳ đầu mới hình thành ở phương
Tây là ở chỗ các nhà Việt Nam học Việt Nam nghiên cứu Việt Nam với mục đích
và yêu cầu tự thân, nghiên cứu mình là để hiểu mình, để tìm ra cái mạnh, cái yếu
của mình nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng và phát triển của chính đất nước và con
người Việt Nam.
2. Việt Nam học liên ngành: Quá trình ra đời và những bước đi đầu tiên
Điều có thể dễ dàng nhận thấy là khoa học càng đi vào chuyên sâu thì càng
bộc lộ những khó khăn và hạn chế của nó trong việc nhìn nhận và đánh giá sự vật,
hiện tượng với tư cách là một hệ thống tổng thể. Yêu cầu phát triển của khoa học là
quá trình chuyên môn hoá, chuyên ngành hoá phải đồng thời với quá trình mở rộng
liên kết, thâm nhập vào nhau, hoà quyện lẫn nhau giữa các chuyên ngành khoa học.
Phương pháp tiếp cận liên ngành (Inter-disciplinary) nẩy sinh trong bối cảnh như
thế và càng ngày càng trở thành xu thế quan trọng trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Liên ngành cũng có các mức độ rộng hẹp khác nhau và trình độ nghiên cứu
liên ngành tuỳ thuộc vào khả năng sử dụng đồng thời, tổng thể và hiệu quả của
nhiều phương pháp đặc thù cho một đối tượng nghiên cứu và đem đến một nhận
thức khoa học chung.
Cùng với sự phát triển của phương pháp nghiên cứu liên ngành là phương
pháp khu vực học (Area Studies). Khu vực học lấy không gian văn hoá - xã hội bao
gồm các lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người và
điều kiện tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của khu vực học là đạt tới
những nhận thức tổng hợp về một không gian, tìm ra những đặc điểm của tự nhiên
và của đời sống con người trong không gian đó.
Việt Nam học là một ngành khoa học “nghiên cứu một Việt Nam trong tính
tổng thể của nó”, một ngành khoa học “nghiên cứu về một vùng đất, về con người ở
vùng đất ấy với tất cả mối quan hệ với thiên nhiên, với lịch sử và xã hội về mọi mặt,
làm nổi rõ những đặc điểm, đặc thù của Việt Nam”1
. Một ngành khoa học như thế
sẽ khó có thể phát triển, thực hiện được đúng mục tiêu và chức năng của nó nếu như
nó vẫn giữ nguyên các phương pháp tiếp cận chuyên ngành truyền thống và không
chủ động chuyển dần sang hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học. Như thế có
thể hình dung Việt Nam học Việt Nam bắt đầu được hình thành từ các khoa học

1
Việt Nam học (Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất), T I, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000, tr 95.
4
chuyên ngành về Việt Nam, trưởng thành trong môi trường nghiên cứu chuyên
ngành, rồi từ thành tựu của các khoa học chuyên ngành hay trên bệ đỡ của các khoa
học chuyên ngành mà dần dần hướng tới liên ngành và khu vực học. Nói như thế,
cũng cần phải loại trừ các khuynh hướng cực đoan coi Việt Nam học trùm lên các
khoa học hay coi tất cả các chuyên ngành nghiên cứu, tất cả những đề tài, dự án có
liên quan đến Việt Nam đều là Việt Nam học. Đã đến lúc chúng ta phải xây dựng
Việt Nam học trở thành một ngành khoa học đích thực trong phạm vi của học thuật,
có đối tượng và phương pháp nghiên cứu cụ thể, rõ ràng.
Nắm bắt được xu thế phát triển này, ngày 11 tháng 11 năm 1988, Hiệu
trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã ra quyết định thành lập Trung tâm Phối
hợp nghiên cứu Việt Nam và cử GS Phan Huy Lê làm Giám đốc, đứng ra xây dựng
ngành Việt Nam học theo hướng nghiên cứu liên ngành. Qua gần một chục năm
hoạt động, Trung tâm đã hoàn thành được nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước,
nhiều chương trình khoa học và đào tạo liên ngành, đặt quan hệ giao lưu và hợp tác
với hầu hết các tổ chức nghiên cứu Việt Nam tại các trường đại học trên thế giới.
Hàng năm Trung tâm tiếp nhận hàng trăm thực tập sinh, nghiên cứu sinh và nhà
khoa học nước ngoài đến học tập nghiên cứu và trao đổi khoa học, trong đó hàng
chục người đã bảo vệ thành công luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ. Qua quan hệ giao lưu,
hợp tác, Trung tâm đã giới thiệu kết quả nghiên cứu của giới khoa học Việt Nam ra
nước ngoài. Trên cơ sở đó, Trung tâm đã đề xuất và đóng vai trò chủ đạo trong việc
tổ chức Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất vào các ngày 15, 16, 17
tháng 7 năm 1998 tại Hà Nội. Đây “thực sự là mội cuộc hội tụ quốc tế quy mô lớn
nhất của đại gia đình các nhà Việt Nam học toàn thế giới, giữa các nhà khoa học
Việt Nam và n
0/5000
จาก: -
เป็น: -
ผลลัพธ์ (อังกฤษ) 1: [สำเนา]
คัดลอก!
STUDY IN VIETNAMON THE PATH OF INTEGRATION AND DEVELOPMENT GS. Dr. Nguyen Quang Ngoc Vietnam Institute of learning and science development, VNU Hanoi1. Vietnam study according to the specialization of research VietnamVIETNAM (VIETNAMOLOGY) Or NGHIỜN RESCUE Vietnam(Vietnamese Studies), as well as oriental (Orientalism) or researchOriental (Oriental Studies) as the only real scienceformed during the birth and development of capitalism in the West,in the context of Western capitalism are expansion and expansionwinner of the Oriental countries.The background of Western orientalists began to form and develop computerfrom the XVI-XVII century associated with the missionary needs and promote thetrade in the era of "Sea trade". Vietnam to study in theIn the West, so also have from the century XVI and XVII century has appearedmany of the authors as Alexandre de Rhodes, Borri, Jean CristophoroBaptiste Tavernier, William Dampier, Samuel Baron ... However is toNINETEENTH century and early twentieth century, along with the process of invasion and colonial ruleFrance then Vietnam School of the West (which essentially and primarily Vietnam schoolof new France), actually became a field of study with the renowned scholars such as HenryMaspéro, Léonard Aurousseau, Paul Pelliot, Léopold Cadière, Emile Gaspardonne,André Haudricourd, Madelein Geoges Colani, Pierre Gourou. In 1900, the InstituteFar East French archaeological established headquarters and the main library in Hanoi has becomethe most important center collection of French and Vietnam HouseWest. Things can easily notice the author's research expertsSave on China or India move to Vietnam, so the research they conduct researchSave Vietnam in match relationship with China or India and in Generalthey have yet to break out of the concept take Europe as a Center. Vietnam learning timeFrench colonial period developed in the development of the Orientalthe West, under the influence of two great academic background is Chinese school 2and Indian students, but has contributed to raising awareness about the country, peopleVietnam, but in fact it is the main instrument of the French for the planthe policy of domination and exploitation colony in Vietnam.Have long history in Vietnam found the prominent scientistas Le Van Nguyen Trai, Retirement, And Corn, LE QUY Don, Phan Huy ...the airtime on the country and people of Vietnam. Can fully consideredThis work is the original basis of paramount importance of Vietnam studies. Tothe early twentieth century, on the basis of traditional academic backgrounds, many intellectuals next Vietnamacquire knowledge and advanced scientific methods from the West has upgraded thehis scientific work. And then right after that, most of the intellectuals that bymany different paths to the path of the revolution, to the socialismThe only animals allowed with Lenin Marxist dialectic and historical materialism and became thethe head of the industry experts in social sciences of Humanities Vietnam. They key iswho enlightened the Vietnam study of modern Vietnam.Vietnam to study at first be understood in a broad sense includes all the professionalthe scientific sector (mainly Humanities and social science) research on the country,people like Vietnam Vietnam Vietnam culture, history, literature, VietnamVietnam Vietnam language, art, economy of Vietnam, Vietnamese lawNam, Vietnam, ethnic geography of Vietnam, the Vietnam environment ... In the spirit ofHe can take on 10 October 1945 when Ho Chi Minh President signed Decree No.45 setting the College Board letters in Hanoi as landmarks marked the appearance of theVietnam School of modern Vietnam. In 1953 with the introduction of local History and Literature BoardIt is the establishment of research institutes, the Faculty of social sciences in the school ofUniversity of Hanoi Pedagogical University, and from 1995 to the present is the marketUniversity of social sciences and Humanities in Hanoi and Ho Chi Minh City,the new developments of Vietnam Vietnam studies towards specialisation.To assert in a new era of construction, Vietnam cannotdo not rely on the specialized study of Vietnam had before as the basis of the backgroundFoundation for the process of formation and its development. The maturity of each onespecific academic research about Vietnam in both within the country and outside the country are able toviewed as a chance for Vietnam's development study. Vietnam studies, alsolà nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam học Việt Nam 3hiện đại khác căn bản so với Việt Nam học thời kỳ đầu mới hình thành ở phươngTây là ở chỗ các nhà Việt Nam học Việt Nam nghiên cứu Việt Nam với mục đíchvà yêu cầu tự thân, nghiên cứu mình là để hiểu mình, để tìm ra cái mạnh, cái yếucủa mình nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng và phát triển của chính đất nước và conngười Việt Nam.2. Việt Nam học liên ngành: Quá trình ra đời và những bước đi đầu tiênĐiều có thể dễ dàng nhận thấy là khoa học càng đi vào chuyên sâu thì càngbộc lộ những khó khăn và hạn chế của nó trong việc nhìn nhận và đánh giá sự vật,hiện tượng với tư cách là một hệ thống tổng thể. Yêu cầu phát triển của khoa học làquá trình chuyên môn hoá, chuyên ngành hoá phải đồng thời với quá trình mở rộngliên kết, thâm nhập vào nhau, hoà quyện lẫn nhau giữa các chuyên ngành khoa học.Phương pháp tiếp cận liên ngành (Inter-disciplinary) nẩy sinh trong bối cảnh nhưthế và càng ngày càng trở thành xu thế quan trọng trên thế giới cũng như ở ViệtNam. Liên ngành cũng có các mức độ rộng hẹp khác nhau và trình độ nghiên cứuliên ngành tuỳ thuộc vào khả năng sử dụng đồng thời, tổng thể và hiệu quả củanhiều phương pháp đặc thù cho một đối tượng nghiên cứu và đem đến một nhậnthức khoa học chung.Cùng với sự phát triển của phương pháp nghiên cứu liên ngành là phươngpháp khu vực học (Area Studies). Khu vực học lấy không gian văn hoá - xã hội baogồm các lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người vàđiều kiện tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của khu vực học là đạt tớinhững nhận thức tổng hợp về một không gian, tìm ra những đặc điểm của tự nhiênvà của đời sống con người trong không gian đó.Việt Nam học là một ngành khoa học “nghiên cứu một Việt Nam trong tínhtổng thể của nó”, một ngành khoa học “nghiên cứu về một vùng đất, về con người ởvùng đất ấy với tất cả mối quan hệ với thiên nhiên, với lịch sử và xã hội về mọi mặt,làm nổi rõ những đặc điểm, đặc thù của Việt Nam”1. Một ngành khoa học như thếsẽ khó có thể phát triển, thực hiện được đúng mục tiêu và chức năng của nó nếu nhưnó vẫn giữ nguyên các phương pháp tiếp cận chuyên ngành truyền thống và khôngchủ động chuyển dần sang hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học. Như thế cóthể hình dung Việt Nam học Việt Nam bắt đầu được hình thành từ các khoa học1Việt Nam học (Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất), T I, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000, tr 95.4chuyên ngành về Việt Nam, trưởng thành trong môi trường nghiên cứu chuyênngành, rồi từ thành tựu của các khoa học chuyên ngành hay trên bệ đỡ của các khoahọc chuyên ngành mà dần dần hướng tới liên ngành và khu vực học. Nói như thế,cũng cần phải loại trừ các khuynh hướng cực đoan coi Việt Nam học trùm lên cáckhoa học hay coi tất cả các chuyên ngành nghiên cứu, tất cả những đề tài, dự án cóliên quan đến Việt Nam đều là Việt Nam học. Đã đến lúc chúng ta phải xây dựngViệt Nam học trở thành một ngành khoa học đích thực trong phạm vi của học thuật,có đối tượng và phương pháp nghiên cứu cụ thể, rõ ràng.Nắm bắt được xu thế phát triển này, ngày 11 tháng 11 năm 1988, Hiệutrưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã ra quyết định thành lập Trung tâm Phốihợp nghiên cứu Việt Nam và cử GS Phan Huy Lê làm Giám đốc, đứng ra xây dựngngành Việt Nam học theo hướng nghiên cứu liên ngành. Qua gần một chục nămhoạt động, Trung tâm đã hoàn thành được nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước,nhiều chương trình khoa học và đào tạo liên ngành, đặt quan hệ giao lưu và hợp tácvới hầu hết các tổ chức nghiên cứu Việt Nam tại các trường đại học trên thế giới.Hàng năm Trung tâm tiếp nhận hàng trăm thực tập sinh, nghiên cứu sinh và nhàkhoa học nước ngoài đến học tập nghiên cứu và trao đổi khoa học, trong đó hàngchục người đã bảo vệ thành công luận án Thạc sĩ, Tiến sĩ. Qua quan hệ giao lưu,hợp tác, Trung tâm đã giới thiệu kết quả nghiên cứu của giới khoa học Việt Nam ranước ngoài. Trên cơ sở đó, Trung tâm đã đề xuất và đóng vai trò chủ đạo trong việctổ chức Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất vào các ngày 15, 16, 17tháng 7 năm 1998 tại Hà Nội. Đây “thực sự là mội cuộc hội tụ quốc tế quy mô lớnnhất của đại gia đình các nhà Việt Nam học toàn thế giới, giữa các nhà khoa họcViệt Nam và n
การแปล กรุณารอสักครู่..
ผลลัพธ์ (อังกฤษ) 2:[สำเนา]
คัดลอก!
LEARNING IN VIETNAM VIETNAM
IN THE PATH INTEGRATION AND DEVELOPMENT
Prof. Dr. Nguyen Quang Ngoc
Vietnam Institute of Development Sciences, VNU
1. Vietnam subjects studied under study Vietnam
VIETNAM SCHOOL (VIETNAMOLOGY) OR Vietnam Study
(Vietnamese Studies), as well as Oriental Studies (Orientalism) or study
Oriental (Oriental Studies) as the sector science really only be
formed during the birth and development of capitalism in the West,
in the context of Western capitalism is expanding expansion and occupied
won the East.
Gradient Eastern Study of the West began to form and develop
from the XVII century attached XVI- missionary needs and strengthen activities
in the era of trade "Sea Trade". Vietnam to study in the
West, so has taken root since the sixteenth century and the turn of the seventeenth century has appeared
several works by authors such as Alexandre de Rhodes, Cristophoro Borri, Jean
Baptiste Tavernier, William Dampier, Samuel Baron ... But not until the late
nineteenth century and early twentieth century, along with the process of invasion and domination of colonial
France is Vietnam's School West (which essentially and mostly Vietnam learn
French ) to really become a discipline with famous scholars like Henry
Maspero, Léonard Aurousseau, Paul Pelliot, Léopold Cadiere, Emile Gaspardonne,
André Geoges Haudricourd, Madeleine Colani, Pierre Gourou ... in 1900, the Institute of
Far East French stock-based establishment and library is located in Hanoi has become
the most important center of Vietnam gathered to learn French and the
West. It could easily see these authors are all experts
on China and India turn to Vietnam study, they study
at Vietnam in relationships can be compared with China or India and On average
, they can not escape from the European concept taken centered. Vietnam to learn the
French colonization was developed in the joint development of the Oriental Studies
West, profoundly influenced by two great academic background is China Study
2
and Indology, but can contribute to the raise awareness about the country and people
of Vietnam, but in essence it is the tool of the French for the formulation
of policies for domination and colonial exploitation in Vietnam.
It has long history in Vietnam Men appeared the eminent scientist
as Le Van Huu, Nguyen Trai, Ngo Si Lien, Le Quy Don, Phan Huy Chu ... with
the immortal works of the country and people of Vietnam. Absolutely can consider
this work as the basis of initial critical study of Vietnam. By the
early twentieth century, on the basis of traditional academic background, many intellectuals Vietnam to
obtain knowledge and advanced scientific methods from the West have increased the range of
its scientific work. And even then, most of the intellectuals there by
many different paths to the revolutionary path, to the neo-
Marxist Leninist dialectical materialism with permits and historical materialism and become
experts branches of social science humanities Vietnam. They are
one of the creators of the background Vietnam Vietnam modern school.
Vietnam was initially learn in a broad sense includes all specialized
sciences (mainly social science and humanities) study about the country and
people of Vietnam as Vietnam History, Culture Vietnam, Vietnam Literature,
Vietnam Art, Language Vietnam, Vietnam's economy, law Vietnam
Nam, Vietnam Ethnicity, Location of Vietnam, Vietnam Environment ... In the spirit
that can take October 10, 1945 when President Ho Chi Minh signed a decree number
45 establishing the University of Arts Committee in Hanoi as a landmark marking the emergence of
Vietnam Vietnam modern school. In 1953 with the birth and you still have a location
that is the establishment of research institutes, social science departments of universities
of Hanoi University, Pedagogical University and from 1995 to the present is the the
University of Social Sciences and Humanities in Hanoi and Ho Chi Minh City, hit
the mark a new development step of Vietnam Vietnam towards school subjects.
It is confirmed in the early stages of new construction, Vietnam Men can not learn
not to rely on specialized studies of Vietnam have previous background as a basis
for the formation foundation and its development. The maturity of each
specific discipline study of Vietnam in both domestic and abroad can
see an opportunity for the development of Vietnam to learn. Vietnam also learn where they
are studying about the country and people of Vietnam. However Vietnam Vietnam Study
3
other modern Vietnam fundamental than learning new early form in the
West is that the Vietnam study studying Vietnam Vietnam with purpose
and ask ourselves, his research is to understand yourself, to find out the strong, the weak
of her to serve the needs of the construction and development of the country and
people of Vietnam.
2. Vietnam interdisciplinary: The birth and first steps
It can be easily noticed is increasingly entering scientific depth, the more
exposed the difficulties and limitations of it in the recognition and evaluation things and
phenomena as an overall system. The requirement of scientific development is
the process of specialization and specialized goods must simultaneously with the process of expanding
links, penetrate each other, intertwine between scientific disciplines.
Interdisciplinary Approach (Inter-disciplinary) arises in this context
that and is increasingly becoming an important trend in the world as well as in Vietnam
Nam. Interdisciplinary also have different levels of narrow widths and research level
interdisciplinary depending on usability at the same time, overall and effectiveness of
specific methods for an object of study and bring a receipt
general science.
Along with the development of interdisciplinary research methods was the
study measures the area (Area Studies). Regional study for a cultural space - society which
includes the fields of human activity and interactions between humans and
the natural conditions make the object of study. The purpose of the study area is reaching
the general perception of a space, to find out the characteristics of nature
and of human life in space.
Vietnam is a science study, "study Vietnam in the calculation
of its overall "science" study of a land, the people in
that region to all relationships with nature, history and society in all aspects and
do prominent characteristics, particularities of Vietnam "1
. Such a science
would be difficult to develop and implement the right target and its function if
it remains the specialized approach of traditional and non-
proactive approach gradually shifted towards inter learning sectors and regions. Such
conceivable Vietnam Vietnam started school was formed from the science 1 Vietnam Study (Proceedings of the international conference for the first time), TI, World Publishing House, Hanoi, 2000, p 95. 4 majors in Vietnam, grew up in the environment research sector, then from the achievements of science majors or on the base of science majoring in which gradually toward interdisciplinary and study area. By that, also need to eliminate extremist tendencies Vietnam considered learning across the many scientific or specialized considered all the research, all the themes and projects related to Vietnam are Vietnamese School year. It is time for us to build Vietnam studying to become a true science in the academic scope, object and specific research methods, obviously. Foreseeing this trend of development, day November 11, 1988, Principal Secretary University of Hanoi has decided to establish a Center for Coordination of Research Vietnam and appointed Professor Phan Huy Lê as Director, led the construction industry towards research study Vietnam interdisciplinary research. After nearly a decade of operation, the Center has accomplished many scientific topics of State, many scientific programs and interdisciplinary training, exchanges and put cooperation with most of the research organizations Vietnam at the universities in the world. Every year hundreds Centres trainees, fellows and foreign scientists to study research and scientific exchange in which every ten people told successfully defended Master's thesis, Dr. Through exchanges, cooperation, the Centre has presented the results of the scientific study Vietnam to foreign countries. On that basis, the Centre has proposed and played a key role in organizing the International Conference on Vietnam first school in the 15th, 16th, 17th July 1998 in Hanoi. This "really is that every international gathering large family of Vietnam the world study, scientists between Vietnam and n



























การแปล กรุณารอสักครู่..
 
ภาษาอื่น ๆ
การสนับสนุนเครื่องมือแปลภาษา: กรีก, กันนาดา, กาลิเชียน, คลิงออน, คอร์สิกา, คาซัค, คาตาลัน, คินยารวันดา, คีร์กิซ, คุชราต, จอร์เจีย, จีน, จีนดั้งเดิม, ชวา, ชิเชวา, ซามัว, ซีบัวโน, ซุนดา, ซูลู, ญี่ปุ่น, ดัตช์, ตรวจหาภาษา, ตุรกี, ทมิฬ, ทาจิก, ทาทาร์, นอร์เวย์, บอสเนีย, บัลแกเรีย, บาสก์, ปัญจาป, ฝรั่งเศส, พาชตู, ฟริเชียน, ฟินแลนด์, ฟิลิปปินส์, ภาษาอินโดนีเซี, มองโกเลีย, มัลทีส, มาซีโดเนีย, มาราฐี, มาลากาซี, มาลายาลัม, มาเลย์, ม้ง, ยิดดิช, ยูเครน, รัสเซีย, ละติน, ลักเซมเบิร์ก, ลัตเวีย, ลาว, ลิทัวเนีย, สวาฮิลี, สวีเดน, สิงหล, สินธี, สเปน, สโลวัก, สโลวีเนีย, อังกฤษ, อัมฮาริก, อาร์เซอร์ไบจัน, อาร์เมเนีย, อาหรับ, อิกโบ, อิตาลี, อุยกูร์, อุสเบกิสถาน, อูรดู, ฮังการี, ฮัวซา, ฮาวาย, ฮินดี, ฮีบรู, เกลิกสกอต, เกาหลี, เขมร, เคิร์ด, เช็ก, เซอร์เบียน, เซโซโท, เดนมาร์ก, เตลูกู, เติร์กเมน, เนปาล, เบงกอล, เบลารุส, เปอร์เซีย, เมารี, เมียนมา (พม่า), เยอรมัน, เวลส์, เวียดนาม, เอสเปอแรนโต, เอสโทเนีย, เฮติครีโอล, แอฟริกา, แอลเบเนีย, โคซา, โครเอเชีย, โชนา, โซมาลี, โปรตุเกส, โปแลนด์, โยรูบา, โรมาเนีย, โอเดีย (โอริยา), ไทย, ไอซ์แลนด์, ไอร์แลนด์, การแปลภาษา.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: