các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết bài trên tạp chí chuyên ngành, chủ  การแปล - các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết bài trên tạp chí chuyên ngành, chủ  ไทย วิธีการพูด

các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết

các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết bài trên tạp chí chuyên ngành, chủ nhiệm các đề tài các cấp. Khi giảng viên thực hiện tốt NCKH, không những chất lượng bài giảng của giảng viên sẽ được cải thiện mà việc hướng dẫn sinh viên tự tìm hiểu tài liệu, tự nghiên cứu sẽ tốt hơn. Quan điểm này là phù hợp với định hướng phát triển năng lực cá nhân của người học theo tinh thần của Chính phủ. Để tạo động lực cho giảng viên trong công tác tích cực tham gia NCKH ở các mức độ cao hơn như làm chủ nhiệm các đề tài khoa học, các trường đại học cần khuyến khích cơ chế phân bổ đề tài theo hình thức đấu thầu. Cụ thể, các giảng viên sẽ tham gia viết đề xuất nghiên cứu và bảo vệ đề xuất trước Hội đồng khoa học của Nhà trường. Giảng viên nào có số điểm cao nhất sẽ được đứng tên chủ nhiệm đề tài và được toàn quyền quyết định nhân sự tham gia thực hiện đề tài. Đối với hoạt động viết bài đăng tạp chí, trường đại học cần có cơ chế phân bổ giờ giảng dạy tương đương hợp lý – đo lường đúng công sức mà giảng viên phải bỏ ra để thực hiện công trình nhằm giảm bớt số lượng giờ giảng của giảng viên trong quá trình NCKH. Bên cạnh đó, các trường đại học nên thành lập đội ngũ nhân sự giúp việc cho giảng viên trong quá trình đào tạo, có thể lấy nhóm sinh viên năm cuối có thành tích học tập tốt tham gia làm trợ giảng theo hình thức giải đáp thắc mắc, hỗ trợ học tập cho các sinh viên. Tại HVNH, tuy chưa hình thành các đội ngũ “tutor” như gợi ý ở trên, nhưng Học viện đã triển khai mô hình các câu lạc bộ học thuật như câu lạc bộ học tập, câu lạc bộ sinh viên NCKH, câu lạc bộ Nhà Ngân hàng tương lai… nhằm tạo ra môi trường trao đổi tri thức giữa các sinh viên trong trường.
Thứ tư, đổi mới cách đánh giá người học.
Ngoài việc tích cực triển khai đánh giá người học theo hướng đánh giá vào quy trình học tập theo các hình thức đa dạng khác nhau như kiểm tra ngắn (quiz), kiểm tra đột xuất (pop quiz), bài tập về nhà (homework, assignment), dự án (project), NCKH (research paper), tiểu luận (essay), thi giữa kỳ (mid-term exam), trường đại học nên tổ chức các bài kiểm tra đánh giá nên tăng cường các phần thuộc bậc nhận thức cao trong bảng xếp loại Bloom là: áp dụng (application), phân tích (analysis), tổng hợp (systhesis), đánh giá (evaluation). Cách kiểm tra đánh giá này sẽ làm cho sinh viên chú ý việc suy luận, nghiên cứu, vận dụng quá trình học tập, và sẽ giảm tình trạng học và ghi nhớ một cách máy móc như trong quá khứ (Tô Ngọc Hưng, 2009).
3.2. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học
Hoạt động NCKH là một trụ cột không thể thiếu tại một trường đại học bên cạnh hoạt động đào tạo và hoạt động xã hội. Nhiều trường đại học trên thế giới hiện nay sử dụng NCKH là một công cụ quan trọng để tăng thứ hạng trên bảng xếp hạng nhằm thu hút sinh viên, đội ngũ giáo sư giỏi tới công tác tại trường. Ngoài ra, NCKH còn là cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo một cách bền vững. Để thúc đẩy hoạt động NCKH trong trường đại học tại Việt Nam, một số khuyến nghị sau cần được thực hiện:

Thứ nhất, xây dựng mô hình Viện NCKH theo hướng chuyên sâu và có độ mở.
Nhiều trường đại học tại Việt Nam đã xây dựng Viện nghiên cứu nhằm mục tiêu tập trung nguồn lực để phát triển NCKH trong trường. Tuy nhiên, hoạt động của các Viện Nghiên cứu vẫn đi theo chiều hướng “đóng”, tức là chỉ duy trì các cán bộ cơ hữu trong Viện mà không mở rộng nhân lực dưới hình thức cộng tác viên nhằm tạo ra tầm ảnh hưởng lớn hơn cho Viện Nghiên cứu. Tại các trường đại học kinh tế, Viện Nghiên cứu có thể phân chia theo mô hình các nhóm nghiên cứu chuyên ngành như: chính sách vĩ mô, doanh nghiệp, nghiên cứu định lượng, tổ chức tín dụng, kinh doanh quốc tế. Các nhóm nghiên cứu này nên hoạt động theo hướng mở như tuyển chọn các cộng tác viên bên ngoài trường tham gia nhằm tăng cường khả năng trao đổi các vấn đề học thuật, kỹ năng nghiên cứu, nguồn cung cấp dữ liệu. Thậm chí, các sinh viên có khả năng nghiên cứu cũng có thể tham gia vào cộng tác với nhóm nhằm phát triển chuyên môn theo hướng nghiên cứu. Tại HVNH, Viện NCKH trong tương lai cần xây dựng các mảng nghiên cứu riêng cho mỗi nghiên cứu viên trong Viện để tạo lập được các nhóm nghiên cứu lớn. Trong ngắn hạn, Viện NCKH cần tích cực kết hợp tham gia các dự án nghiên cứu bên ngoài Học viện nhằm tăng cường quá trình trao đổi, tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu đa dạng từ các Viện, trường đại học khác.
Thứ hai, phải tích cực gắn kết được hoạt động NCKH với hoạt động đào tạo và hoạt động thực tiễn.
Gắn kết ba hoạt động NCKH, đào tạo và thực tiễn là một khuyến nghị nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho trường đại học. Các cán bộ làm công tác NCKH trên những lĩnh vực chuyên môn nào cần được tham gia vào quá trình đào tạo với các lĩnh vực chuyên môn đó. Ngược lại, các giảng viên giảng dạy bộ môn nào cần tích cực đào sâu nghiên cứu vào các vấn đề có liên quan trong bộ môn đó. Như vậy, hoạt động NCKH và hoạt động đào tạo đã có thể được bổ sung cho nhau một cách tương hỗ, hoạt động này tạo động lực để phát triển hoạt động kia. Bên cạnh đó, hướng nghiên cứu gắn với thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới thực tiễn sẽ tạo ra động lực nghiên cứu tốt hơn cho các cán bộ tham gia công tác NCKH.
Trước vai trò quan trọng của ba hoạt động này, cần kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp trong công tác đào tạo cũng như NCKH, trên cơ sở nội dung, chương trình đào tạo đối với từng chuyên ngành phải thường xuyên được rà soát nhằm cập nhật theo yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay (Tô Ngọc Hưng, 2009).
Tuy hoạt động này đã được một số trường đại học kinh tế tại Việt Nam triển khai nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề như chất lượng hoạt động chưa cao, chưa có chế độ trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên kết hợp kiến tập tại môi trường bên ngoài trong khoảng thời gian ngắn hạn nhằm tạo cho họ yếu tố “cảm nhận” về môi trường
0/5000
จาก: -
เป็น: -
ผลลัพธ์ (ไทย) 1: [สำเนา]
คัดลอก!
các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết bài trên tạp chí chuyên ngành, chủ nhiệm các đề tài các cấp. Khi giảng viên thực hiện tốt NCKH, không những chất lượng bài giảng của giảng viên sẽ được cải thiện mà việc hướng dẫn sinh viên tự tìm hiểu tài liệu, tự nghiên cứu sẽ tốt hơn. Quan điểm này là phù hợp với định hướng phát triển năng lực cá nhân của người học theo tinh thần của Chính phủ. Để tạo động lực cho giảng viên trong công tác tích cực tham gia NCKH ở các mức độ cao hơn như làm chủ nhiệm các đề tài khoa học, các trường đại học cần khuyến khích cơ chế phân bổ đề tài theo hình thức đấu thầu. Cụ thể, các giảng viên sẽ tham gia viết đề xuất nghiên cứu và bảo vệ đề xuất trước Hội đồng khoa học của Nhà trường. Giảng viên nào có số điểm cao nhất sẽ được đứng tên chủ nhiệm đề tài và được toàn quyền quyết định nhân sự tham gia thực hiện đề tài. Đối với hoạt động viết bài đăng tạp chí, trường đại học cần có cơ chế phân bổ giờ giảng dạy tương đương hợp lý – đo lường đúng công sức mà giảng viên phải bỏ ra để thực hiện công trình nhằm giảm bớt số lượng giờ giảng của giảng viên trong quá trình NCKH. Bên cạnh đó, các trường đại học nên thành lập đội ngũ nhân sự giúp việc cho giảng viên trong quá trình đào tạo, có thể lấy nhóm sinh viên năm cuối có thành tích học tập tốt tham gia làm trợ giảng theo hình thức giải đáp thắc mắc, hỗ trợ học tập cho các sinh viên. Tại HVNH, tuy chưa hình thành các đội ngũ “tutor” như gợi ý ở trên, nhưng Học viện đã triển khai mô hình các câu lạc bộ học thuật như câu lạc bộ học tập, câu lạc bộ sinh viên NCKH, câu lạc bộ Nhà Ngân hàng tương lai… nhằm tạo ra môi trường trao đổi tri thức giữa các sinh viên trong trường.
Thứ tư, đổi mới cách đánh giá người học.
Ngoài việc tích cực triển khai đánh giá người học theo hướng đánh giá vào quy trình học tập theo các hình thức đa dạng khác nhau như kiểm tra ngắn (quiz), kiểm tra đột xuất (pop quiz), bài tập về nhà (homework, assignment), dự án (project), NCKH (research paper), tiểu luận (essay), thi giữa kỳ (mid-term exam), trường đại học nên tổ chức các bài kiểm tra đánh giá nên tăng cường các phần thuộc bậc nhận thức cao trong bảng xếp loại Bloom là: áp dụng (application), phân tích (analysis), tổng hợp (systhesis), đánh giá (evaluation). Cách kiểm tra đánh giá này sẽ làm cho sinh viên chú ý việc suy luận, nghiên cứu, vận dụng quá trình học tập, và sẽ giảm tình trạng học và ghi nhớ một cách máy móc như trong quá khứ (Tô Ngọc Hưng, 2009).
3.2. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học
Hoạt động NCKH là một trụ cột không thể thiếu tại một trường đại học bên cạnh hoạt động đào tạo và hoạt động xã hội. Nhiều trường đại học trên thế giới hiện nay sử dụng NCKH là một công cụ quan trọng để tăng thứ hạng trên bảng xếp hạng nhằm thu hút sinh viên, đội ngũ giáo sư giỏi tới công tác tại trường. Ngoài ra, NCKH còn là cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo một cách bền vững. Để thúc đẩy hoạt động NCKH trong trường đại học tại Việt Nam, một số khuyến nghị sau cần được thực hiện:

Thứ nhất, xây dựng mô hình Viện NCKH theo hướng chuyên sâu và có độ mở.
Nhiều trường đại học tại Việt Nam đã xây dựng Viện nghiên cứu nhằm mục tiêu tập trung nguồn lực để phát triển NCKH trong trường. Tuy nhiên, hoạt động của các Viện Nghiên cứu vẫn đi theo chiều hướng “đóng”, tức là chỉ duy trì các cán bộ cơ hữu trong Viện mà không mở rộng nhân lực dưới hình thức cộng tác viên nhằm tạo ra tầm ảnh hưởng lớn hơn cho Viện Nghiên cứu. Tại các trường đại học kinh tế, Viện Nghiên cứu có thể phân chia theo mô hình các nhóm nghiên cứu chuyên ngành như: chính sách vĩ mô, doanh nghiệp, nghiên cứu định lượng, tổ chức tín dụng, kinh doanh quốc tế. Các nhóm nghiên cứu này nên hoạt động theo hướng mở như tuyển chọn các cộng tác viên bên ngoài trường tham gia nhằm tăng cường khả năng trao đổi các vấn đề học thuật, kỹ năng nghiên cứu, nguồn cung cấp dữ liệu. Thậm chí, các sinh viên có khả năng nghiên cứu cũng có thể tham gia vào cộng tác với nhóm nhằm phát triển chuyên môn theo hướng nghiên cứu. Tại HVNH, Viện NCKH trong tương lai cần xây dựng các mảng nghiên cứu riêng cho mỗi nghiên cứu viên trong Viện để tạo lập được các nhóm nghiên cứu lớn. Trong ngắn hạn, Viện NCKH cần tích cực kết hợp tham gia các dự án nghiên cứu bên ngoài Học viện nhằm tăng cường quá trình trao đổi, tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu đa dạng từ các Viện, trường đại học khác.
Thứ hai, phải tích cực gắn kết được hoạt động NCKH với hoạt động đào tạo và hoạt động thực tiễn.
Gắn kết ba hoạt động NCKH, đào tạo và thực tiễn là một khuyến nghị nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho trường đại học. Các cán bộ làm công tác NCKH trên những lĩnh vực chuyên môn nào cần được tham gia vào quá trình đào tạo với các lĩnh vực chuyên môn đó. Ngược lại, các giảng viên giảng dạy bộ môn nào cần tích cực đào sâu nghiên cứu vào các vấn đề có liên quan trong bộ môn đó. Như vậy, hoạt động NCKH và hoạt động đào tạo đã có thể được bổ sung cho nhau một cách tương hỗ, hoạt động này tạo động lực để phát triển hoạt động kia. Bên cạnh đó, hướng nghiên cứu gắn với thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới thực tiễn sẽ tạo ra động lực nghiên cứu tốt hơn cho các cán bộ tham gia công tác NCKH.
Trước vai trò quan trọng của ba hoạt động này, cần kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp trong công tác đào tạo cũng như NCKH, trên cơ sở nội dung, chương trình đào tạo đối với từng chuyên ngành phải thường xuyên được rà soát nhằm cập nhật theo yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay (Tô Ngọc Hưng, 2009).
Tuy hoạt động này đã được một số trường đại học kinh tế tại Việt Nam triển khai nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề như chất lượng hoạt động chưa cao, chưa có chế độ trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên kết hợp kiến tập tại môi trường bên ngoài trong khoảng thời gian ngắn hạn nhằm tạo cho họ yếu tố “cảm nhận” về môi trường
การแปล กรุณารอสักครู่..
ผลลัพธ์ (ไทย) 2:[สำเนา]
คัดลอก!
các nhiệm vụ phức tạp hơn như viết bài trên tạp chí chuyên ngành, chủ nhiệm các đề tài các cấp. Khi giảng viên thực hiện tốt NCKH, không những chất lượng bài giảng của giảng viên sẽ được cải thiện mà việc hướng dẫn sinh viên tự tìm hiểu tài liệu, tự nghiên cứu sẽ tốt hơn. Quan điểm này là phù hợp với định hướng phát triển năng lực cá nhân của người học theo tinh thần của Chính phủ. Để tạo động lực cho giảng viên trong công tác tích cực tham gia NCKH ở các mức độ cao hơn như làm chủ nhiệm các đề tài khoa học, các trường đại học cần khuyến khích cơ chế phân bổ đề tài theo hình thức đấu thầu. Cụ thể, các giảng viên sẽ tham gia viết đề xuất nghiên cứu và bảo vệ đề xuất trước Hội đồng khoa học của Nhà trường. Giảng viên nào có số điểm cao nhất sẽ được đứng tên chủ nhiệm đề tài và được toàn quyền quyết định nhân sự tham gia thực hiện đề tài. Đối với hoạt động viết bài đăng tạp chí, trường đại học cần có cơ chế phân bổ giờ giảng dạy tương đương hợp lý – đo lường đúng công sức mà giảng viên phải bỏ ra để thực hiện công trình nhằm giảm bớt số lượng giờ giảng của giảng viên trong quá trình NCKH. Bên cạnh đó, các trường đại học nên thành lập đội ngũ nhân sự giúp việc cho giảng viên trong quá trình đào tạo, có thể lấy nhóm sinh viên năm cuối có thành tích học tập tốt tham gia làm trợ giảng theo hình thức giải đáp thắc mắc, hỗ trợ học tập cho các sinh viên. Tại HVNH, tuy chưa hình thành các đội ngũ “tutor” như gợi ý ở trên, nhưng Học viện đã triển khai mô hình các câu lạc bộ học thuật như câu lạc bộ học tập, câu lạc bộ sinh viên NCKH, câu lạc bộ Nhà Ngân hàng tương lai… nhằm tạo ra môi trường trao đổi tri thức giữa các sinh viên trong trường.
Thứ tư, đổi mới cách đánh giá người học.
Ngoài việc tích cực triển khai đánh giá người học theo hướng đánh giá vào quy trình học tập theo các hình thức đa dạng khác nhau như kiểm tra ngắn (quiz), kiểm tra đột xuất (pop quiz), bài tập về nhà (homework, assignment), dự án (project), NCKH (research paper), tiểu luận (essay), thi giữa kỳ (mid-term exam), trường đại học nên tổ chức các bài kiểm tra đánh giá nên tăng cường các phần thuộc bậc nhận thức cao trong bảng xếp loại Bloom là: áp dụng (application), phân tích (analysis), tổng hợp (systhesis), đánh giá (evaluation). Cách kiểm tra đánh giá này sẽ làm cho sinh viên chú ý việc suy luận, nghiên cứu, vận dụng quá trình học tập, và sẽ giảm tình trạng học và ghi nhớ một cách máy móc như trong quá khứ (Tô Ngọc Hưng, 2009).
3.2. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học
Hoạt động NCKH là một trụ cột không thể thiếu tại một trường đại học bên cạnh hoạt động đào tạo và hoạt động xã hội. Nhiều trường đại học trên thế giới hiện nay sử dụng NCKH là một công cụ quan trọng để tăng thứ hạng trên bảng xếp hạng nhằm thu hút sinh viên, đội ngũ giáo sư giỏi tới công tác tại trường. Ngoài ra, NCKH còn là cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo một cách bền vững. Để thúc đẩy hoạt động NCKH trong trường đại học tại Việt Nam, một số khuyến nghị sau cần được thực hiện:

Thứ nhất, xây dựng mô hình Viện NCKH theo hướng chuyên sâu và có độ mở.
Nhiều trường đại học tại Việt Nam đã xây dựng Viện nghiên cứu nhằm mục tiêu tập trung nguồn lực để phát triển NCKH trong trường. Tuy nhiên, hoạt động của các Viện Nghiên cứu vẫn đi theo chiều hướng “đóng”, tức là chỉ duy trì các cán bộ cơ hữu trong Viện mà không mở rộng nhân lực dưới hình thức cộng tác viên nhằm tạo ra tầm ảnh hưởng lớn hơn cho Viện Nghiên cứu. Tại các trường đại học kinh tế, Viện Nghiên cứu có thể phân chia theo mô hình các nhóm nghiên cứu chuyên ngành như: chính sách vĩ mô, doanh nghiệp, nghiên cứu định lượng, tổ chức tín dụng, kinh doanh quốc tế. Các nhóm nghiên cứu này nên hoạt động theo hướng mở như tuyển chọn các cộng tác viên bên ngoài trường tham gia nhằm tăng cường khả năng trao đổi các vấn đề học thuật, kỹ năng nghiên cứu, nguồn cung cấp dữ liệu. Thậm chí, các sinh viên có khả năng nghiên cứu cũng có thể tham gia vào cộng tác với nhóm nhằm phát triển chuyên môn theo hướng nghiên cứu. Tại HVNH, Viện NCKH trong tương lai cần xây dựng các mảng nghiên cứu riêng cho mỗi nghiên cứu viên trong Viện để tạo lập được các nhóm nghiên cứu lớn. Trong ngắn hạn, Viện NCKH cần tích cực kết hợp tham gia các dự án nghiên cứu bên ngoài Học viện nhằm tăng cường quá trình trao đổi, tích lũy kinh nghiệm nghiên cứu đa dạng từ các Viện, trường đại học khác.
Thứ hai, phải tích cực gắn kết được hoạt động NCKH với hoạt động đào tạo và hoạt động thực tiễn.
Gắn kết ba hoạt động NCKH, đào tạo và thực tiễn là một khuyến nghị nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho trường đại học. Các cán bộ làm công tác NCKH trên những lĩnh vực chuyên môn nào cần được tham gia vào quá trình đào tạo với các lĩnh vực chuyên môn đó. Ngược lại, các giảng viên giảng dạy bộ môn nào cần tích cực đào sâu nghiên cứu vào các vấn đề có liên quan trong bộ môn đó. Như vậy, hoạt động NCKH và hoạt động đào tạo đã có thể được bổ sung cho nhau một cách tương hỗ, hoạt động này tạo động lực để phát triển hoạt động kia. Bên cạnh đó, hướng nghiên cứu gắn với thực tiễn nhằm giải quyết các vấn đề liên quan tới thực tiễn sẽ tạo ra động lực nghiên cứu tốt hơn cho các cán bộ tham gia công tác NCKH.
Trước vai trò quan trọng của ba hoạt động này, cần kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp trong công tác đào tạo cũng như NCKH, trên cơ sở nội dung, chương trình đào tạo đối với từng chuyên ngành phải thường xuyên được rà soát nhằm cập nhật theo yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay (Tô Ngọc Hưng, 2009).
Tuy hoạt động này đã được một số trường đại học kinh tế tại Việt Nam triển khai nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề như chất lượng hoạt động chưa cao, chưa có chế độ trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên kết hợp kiến tập tại môi trường bên ngoài trong khoảng thời gian ngắn hạn nhằm tạo cho họ yếu tố “cảm nhận” về môi trường
การแปล กรุณารอสักครู่..
 
ภาษาอื่น ๆ
การสนับสนุนเครื่องมือแปลภาษา: กรีก, กันนาดา, กาลิเชียน, คลิงออน, คอร์สิกา, คาซัค, คาตาลัน, คินยารวันดา, คีร์กิซ, คุชราต, จอร์เจีย, จีน, จีนดั้งเดิม, ชวา, ชิเชวา, ซามัว, ซีบัวโน, ซุนดา, ซูลู, ญี่ปุ่น, ดัตช์, ตรวจหาภาษา, ตุรกี, ทมิฬ, ทาจิก, ทาทาร์, นอร์เวย์, บอสเนีย, บัลแกเรีย, บาสก์, ปัญจาป, ฝรั่งเศส, พาชตู, ฟริเชียน, ฟินแลนด์, ฟิลิปปินส์, ภาษาอินโดนีเซี, มองโกเลีย, มัลทีส, มาซีโดเนีย, มาราฐี, มาลากาซี, มาลายาลัม, มาเลย์, ม้ง, ยิดดิช, ยูเครน, รัสเซีย, ละติน, ลักเซมเบิร์ก, ลัตเวีย, ลาว, ลิทัวเนีย, สวาฮิลี, สวีเดน, สิงหล, สินธี, สเปน, สโลวัก, สโลวีเนีย, อังกฤษ, อัมฮาริก, อาร์เซอร์ไบจัน, อาร์เมเนีย, อาหรับ, อิกโบ, อิตาลี, อุยกูร์, อุสเบกิสถาน, อูรดู, ฮังการี, ฮัวซา, ฮาวาย, ฮินดี, ฮีบรู, เกลิกสกอต, เกาหลี, เขมร, เคิร์ด, เช็ก, เซอร์เบียน, เซโซโท, เดนมาร์ก, เตลูกู, เติร์กเมน, เนปาล, เบงกอล, เบลารุส, เปอร์เซีย, เมารี, เมียนมา (พม่า), เยอรมัน, เวลส์, เวียดนาม, เอสเปอแรนโต, เอสโทเนีย, เฮติครีโอล, แอฟริกา, แอลเบเนีย, โคซา, โครเอเชีย, โชนา, โซมาลี, โปรตุเกส, โปแลนด์, โยรูบา, โรมาเนีย, โอเดีย (โอริยา), ไทย, ไอซ์แลนด์, ไอร์แลนด์, การแปลภาษา.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: