Câu hỏi cơ bản của kinh tế học đô thị là lý do tại sao thành phố lại tồn tại. Glaeser cho rằng các thành phố tồn tại để loại bỏ chi phí vận chuyển, chuyển giao nhân lực, hàng hoá và các ý tưởng kinh tế. Để chi phí vận chuyển bằng 0, các thành phố chuyên sản xuất đã được tạo ra vào thế kỷ XIX (được mô phỏng trong nghiên cứu của Krugman năm 1991). Nhưng lợi thế này sẽ không còn khi chi phí vận chuyển giảm xuống (có thể do phát triển giao thông vận tải…) và khi việc sản xuất diễn ra ở ngoài thành phố.
Ngoài ra, mô hình lao động tổng hợp và sự phân công lao động cũng thúc đẩy di cư ra các thành phố lớn. Ví dụ, trong mô hình thị trường lao động tổng hợp Marshall, các công ty hợp tác với nhau vì người lao động muốn rằng họ có thể thay đổi nơi làm việc sang công ty khác nếu công ty của hiện tại của họ đang suy thoái hoặc cảm thấy bất hoà với đồng nghiệp của mình. Đó cũng là lý giải cho việc các ngành công nghiệp được phân bố gần nhau trên cơ sở sử dụng cùng một kiểu lao động giống nhau trong nghiên cứu của Dumains năm 1997 (đã đề cập ở phần giới thiệu).
Các thành phố cũng là nơi tạo điều kiện cho các dòng chảy ý tưởng kinh tế được lưu thông giữa các cá nhân và doanh nghiệp. Làm việc ở gần các khu đô thị cho phép người lao động nâng cao khả năng, trình độ chuyên môn bằng cách bắt chước lại các mô hình mẫu trên lý thuyết hay từ việc quan sát người khác làm. Sự trao đổi, giao lưu những ý tưởng kinh tế cũng có thể làm tăng tốc độ đổi mới công nghệ và đổi mới sản phẩm. Các ý tưởng mới không chỉ phục vụ cho sự phát triển của các công ty hiện có, mà còn có thể là tiền đề để tạo ra những công ty sản xuất mới, có điều kiện vật chất kỹ thuật, quy trình sản xuất tốt hơn.
Các công ty hay cá nhân cũng có thể sử dụng ý tưởng của nhau. Tất nhiên, nơi nào có ý tưởng tốt hơn, hiệu quả hơn thì nơi đó sẽ phát triển nhanh hơn. Các thành phố là những nơi sản sinh ra nhiều ý tưởng hơn những nơi khác bởi vì các nhà cải cách đều hội tụ ở đây và bị ràng buộc ở vị trí địa lý của họ. Theo đó, khi những nhà cái cách có những sáng kiến mới, họ sẽ thực hiện chúng ở thành phố của họ đầu tiên. Về sau, khi những ý tưởng đó trở nên lỗi thời, thì chúng sẽ được chuyển đến những nơi có chi phí sản xuất thấp để áp dụng. Những ý tưởng tốt đương thời luôn luôn được thực hiện trong thành phố. Tất nhiên, việc thực hiện đó chỉ mang tính tạm thời.
Ngoài ra, các cá nhân tìm đến các thành phố để hy vọng nảy ra những ý tưởng mới cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, điều này chỉ gây ra tác dụng tĩnh, tức là làm thay đổi quy mô, kích cỡ của thành phố chứ không phải tạo ra tác dụng động, tức là làm thay đổi chỉ số tăng trưởng kinh tế của thành phố đó.
Câu hỏi cơ bản của kinh tế học đô thị là lý do tại sao thành phố lại tồn tại. Glaeser cho rằng các thành phố tồn tại để loại bỏ chi phí vận chuyển, chuyển giao nhân lực, hàng hoá và các ý tưởng kinh tế. Để chi phí vận chuyển bằng 0, các thành phố chuyên sản xuất đã được tạo ra vào thế kỷ XIX (được mô phỏng trong nghiên cứu của Krugman năm 1991). Nhưng lợi thế này sẽ không còn khi chi phí vận chuyển giảm xuống (có thể do phát triển giao thông vận tải…) và khi việc sản xuất diễn ra ở ngoài thành phố.
Ngoài ra, mô hình lao động tổng hợp và sự phân công lao động cũng thúc đẩy di cư ra các thành phố lớn. Ví dụ, trong mô hình thị trường lao động tổng hợp Marshall, các công ty hợp tác với nhau vì người lao động muốn rằng họ có thể thay đổi nơi làm việc sang công ty khác nếu công ty của hiện tại của họ đang suy thoái hoặc cảm thấy bất hoà với đồng nghiệp của mình. Đó cũng là lý giải cho việc các ngành công nghiệp được phân bố gần nhau trên cơ sở sử dụng cùng một kiểu lao động giống nhau trong nghiên cứu của Dumains năm 1997 (đã đề cập ở phần giới thiệu).
Các thành phố cũng là nơi tạo điều kiện cho các dòng chảy ý tưởng kinh tế được lưu thông giữa các cá nhân và doanh nghiệp. Làm việc ở gần các khu đô thị cho phép người lao động nâng cao khả năng, trình độ chuyên môn bằng cách bắt chước lại các mô hình mẫu trên lý thuyết hay từ việc quan sát người khác làm. Sự trao đổi, giao lưu những ý tưởng kinh tế cũng có thể làm tăng tốc độ đổi mới công nghệ và đổi mới sản phẩm. Các ý tưởng mới không chỉ phục vụ cho sự phát triển của các công ty hiện có, mà còn có thể là tiền đề để tạo ra những công ty sản xuất mới, có điều kiện vật chất kỹ thuật, quy trình sản xuất tốt hơn.
Các công ty hay cá nhân cũng có thể sử dụng ý tưởng của nhau. Tất nhiên, nơi nào có ý tưởng tốt hơn, hiệu quả hơn thì nơi đó sẽ phát triển nhanh hơn. Các thành phố là những nơi sản sinh ra nhiều ý tưởng hơn những nơi khác bởi vì các nhà cải cách đều hội tụ ở đây và bị ràng buộc ở vị trí địa lý của họ. Theo đó, khi những nhà cái cách có những sáng kiến mới, họ sẽ thực hiện chúng ở thành phố của họ đầu tiên. Về sau, khi những ý tưởng đó trở nên lỗi thời, thì chúng sẽ được chuyển đến những nơi có chi phí sản xuất thấp để áp dụng. Những ý tưởng tốt đương thời luôn luôn được thực hiện trong thành phố. Tất nhiên, việc thực hiện đó chỉ mang tính tạm thời.
Ngoài ra, các cá nhân tìm đến các thành phố để hy vọng nảy ra những ý tưởng mới cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, điều này chỉ gây ra tác dụng tĩnh, tức là làm thay đổi quy mô, kích cỡ của thành phố chứ không phải tạo ra tác dụng động, tức là làm thay đổi chỉ số tăng trưởng kinh tế của thành phố đó.
การแปล กรุณารอสักครู่..