Phân tích khung chính sách cho thấy một số điểm mạnh. Trước hết, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới thể hiện chuyển đổi định hướng từ quan điểm Phụ nữ trong Phát triển sang cách tiếp cận Giới và Phát triển26. Thứ hai, các quyết định và nghị quyết quy định vai trò và trách nhiệm của các Bộ và cơ quan. MOHA và MOLISA chịu trách nhiệm thực thi chính các dự án liên quan đến vai trò lãnh đạo của phụ nữ nêu trong Chương trình quốc gia. Hơn nữa, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới đi kèm với ngân sách nhà nước 46 triệu đô la trong 5 năm (2011-2015). Để hỗ trợ quá trình giám sát, Chương trình quốc gia và Chiến lược quốc gia cung cấp một số dữ liệu so sánh cơ sở. Thêm vào đó, một số chỉ tiêu được xây dựng rõ ràng và có thể đo lường được. Ví dụ, chỉ tiêu 1, mục tiêu 1 của Chiến lược quốc gia quy định “tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đạt từ 30% trở lên trong nhiệm kỳ 2011-2015 và hơn 35% trong nhiệm kỳ 2016 - 2020”27. Các chỉ tiêu “30% trở lên” và “hơn 35%”, cho thấy phương hướng hướng tới bình đẳng và tránh rơi vào tình trạng khó khăn như nhiều quốc gia, khi chỉ đặt mục tiêu 30% chứ không phải là 50% hoặc tối thiểu 30%.